Cập nhật KQKD ngân hàng quý III: Thêm một ngân hàng báo lãi tăng hai con số

Tính đến ngày 17/10, đã có tổng cộng 5 ngân hàng công bố sơ bộ và chi tiết kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm với nhiều chỉ tiêu tích cực.

Mới đây nhất, Ngân hàng TMCP Việt Á (VietABank - Mã: VAB) vừa công bố báo cáo tài chính quý III/2025 với lợi nhuận trước thuế đạt 336 tỷ đồng, tăng 45,8% so với cùng kỳ.

Luỹ kế 9 tháng đầu năm, ngân hàng thu về khoản lãi trước thuế 1.050 tỷ đồng, tăng 32,3% so với cùng kỳ năm trước. Với kết quả trên, ngân hàng đã thực hiện được hơn 80% kế hoạch lợi nhuận năm.

Trong quý III, VietABank ghi nhận thu nhập lãi thuần tăng 38,1%, đạt 639 tỷ đồng, do thu nhập lãi và các khoản thu nhập tương tự tăng gần 36% trội hơn so với mức tăng của chi phí lãi và các khoản chi phí tương tự (tăng 34,8%).

Tương tự, các khoản thu ngoài lãi cũng có kết quả tích cực, khi thu về 95 tỷ đồng, tăng gần 41% so với cùng kỳ. Trong đó, động lực tăng trưởng đến từ mảng hoạt động khác, đem về 75 tỷ đồng, tăng 250% so với cùng kỳ năm ngoái.

Tính đến ngày 30/9/2025, tổng tài sản của VietABank tăng 12,3%, đạt 134.614 tỷ đồng; dư nợ cho vay khách hàng tăng 8,7% so với cuối năm 2024. Trong đó, tiền gửi khách hàng đạt 97.984 tỷ đồng, tăng 8,5% so với đầu năm. 

Về chất lượng tài sản, số dư nợ xấu của VietABank vào cuối quý III là 1.556 tỷ đồng, tăng 42,6%, kéo theo tỷ lệ nợ xấu tăng từ 1,37% lên 1,79% (tổng nợ nhóm 3,4,5/tổng dư nợ cho vay khách hàng) nhưng vẫn thấp hơn so với tỷ lệ quy định của Ngân hàng Nhà nước. Trong đó, nợ xấu tăng lên chủ yếu từ nợ nhóm 4, tăng 88,5%.

 

Ngân hàng TMCP Quốc Dân (NCB) tiếp tục ghi nhận hoạt động kinh doanh tích cực trong quý III/2025 với lợi nhuận sau thuế ước đạt gần 190 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng năm 2025, lợi nhuận sau thuế ngân hàng ước đạt hơn 652 tỷ đồng. Kết quả kinh doanh trên đã cải thiện so với mức lỗ hơn 65 tỷ đồng của quý III/2024 và lỗ 59 tỷ đồng của 9 tháng đầu năm 2024.

Trong quý, thu nhập lãi thuần ước đạt hơn 685 tỷ đồng, tăng 150%; thu nhập từ hoạt động dịch vụ ước đạt hơn 62 tỷ đồng, tăng tới 370% so với cùng kỳ 2024.

Tính đến ngày 30/9/2025, tổng tài sản ước đạt hơn 154.100 tỷ đồng, tăng 30% so với cuối năm 2024 và vượt kế hoạch 14%; huy động vốn (không bao gồm phát hành giấy tờ có giá) ước đạt gần 119.326 tỷ đồng và cho vay khách hàng ước đạt hơn 94.956 tỷ đồng, tăng lần lượt 24% và 33% so với cuối 2024 và vượt lần lượt 1% và 3% so với kế hoạch 2025 đã đề ra.

Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank - Mã: VPB) báo lãi 9.166 tỷ đồng trong quý III, tăng trưởng 76,7% so với cùng kỳ và cao nhất trong 15 quý gần đây. Trong đó, ngân hàng mẹ lãi 6.378 tỷ đồng, tăng trưởng 39,9%.

Lũy kế 9 tháng, lợi nhuận của VPBank ở mức 20.396 tỷ đồng, cao hơn 47,1% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài ra, công ty tài chính FE Credit tiếp tục duy trì đà phục hồi khi lợi nhuận 9 tháng tương đương kết quả cả năm 2024.

Tính đến hết tháng 9,tổng tài sản hợp nhất của VPBank đạt gần 1,18 triệu tỷ đồng, tăng trưởng 27,5% so với đầu năm; tổng tài sản riêng lẻ hơn 1,1 triệu tỷ đồng. Dư nợ tín dụng hợp nhất của VPBank đạt gần 912.000 tỷ đồng, tăng 28,4% nhờ đóng góp từ cả ngân hàng mẹ và các công ty thành viên. Trong đó, tín dụng riêng lẻ ở mức 813.000 tỷ đồng.

Các tỷ lệ an toàn như cho vay trên tổng tiền gửi (LDR) và vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn lần lượt được kiểm soát ở mức 82,8% và 26,5%.

Tính đến cuối quý III/2025, tỷ lệ nợ xấu (NPL) hợp nhất theo Thông tư 31 được kiểm soát chặt chẽ, giảm xuống dưới ngưỡng 3%; nợ xấu riêng lẻ tiếp tục xu hướng cải thiện, ở mức 2,23%.

Sau 9 tháng, thu từ nợ đã xử lý rủi ro hợp nhất đạt gần 2.900 tỷ đồng, riêng trong quý III/2025, thu nợ tăng 29,7% so với quý liền trước. Cuối tháng 9, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của ngân hàng hợp nhất duy trì trên 13%, tiếp tục nằm trong nhóm dẫn đầu.

 

Ngân hàng TMCP Nam Á (Nam A Bank - Mã: NAB) cũng công bố kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm với lợi nhuận trước thuế đạt hơn 3.800 tỷ đồng, tăng gần 520 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước (tương đương 16%) và hoàn thành 77% kế hoạch cả năm. Ước tính riêng trong quý III, lợi nhuận của Nam A Bank đạt khoảng 1.300 tỷ đồng, tăng 17,5%

Tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động (CIR) giảm từ mức trên 40% (năm 2024) xuống còn 33,7%. Đặc biệt, thu nhập ngoài lãi chiếm tới 17,1% tổng thu nhập hoạt động – gần gấp đôi so với đầu năm 2025, nhờ đóng góp tích cực từ dịch vụ ngân hàng số, kinh doanh ngoại hối, đầu tư và phí dịch vụ. 

Luỹ kế 9 tháng đầu năm, tiền gửi từ tổ chức kinh tế và dân cư tăng hơn 35.000 tỷ đồng tương đương tăng hơn 20% so với đầu năm 2025. Ở phía tài sản sinh lời, dư nợ tín dụng tăng hơn 30.000 tỷ đồng tương đương tăng hơn 17,88% so với đầu năm 2025, còn danh mục trái phiếu đầu tư tăng gần 14.000 tỷ đồng,

Rính đến cuối tháng 9/2025, tổng tài sản đạt hơn 377.000 tỷ đồng, tăng hơn 132.000 tỷ đồng so với đầu năm.Các chỉ tiêu hiệu quả sinh lời giữ ở mức cao trong nhóm ngân hàng tầm trung, với tỷ lệ NIM duy trì khoảng 3,2%, ROA đạt 1,42% và ROE tiệm cận 20%.

Tỷ lệ nợ xấu ở mức 2,53% (trước CIC) và 2,73% sau CIC quay đầu giảm so với 2,85% của kỳ 30/6/2025. Đồng thời, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) tăng mạnh từ 39% của kỳ 30/6/2025 lên gần 46% kỳ 30/9/2025. 

Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank), tính đến ngày 30/9/2025, tổng nguồn vốn ngân hàng đạt hơn 2,2 triệu tỷ đồng, tăng 10,7% so với đầu năm, hoàn thành 95,5% kế hoạch tăng trưởng và đạt 11,2% theo cân đối vốn đầu năm.

Với kết quả trên, Agribank giữ vững vị trí top đầu hệ thống ngân hàng về thị phần tiền gửi dân cư với quy mô hơn 1,7 triệu tỷ đồng từ gần 18 triệu khách hàng.

Tính đến ngày 30/9, tỷ lệ nợ xấu nội bảng giảm xuống còn 1,19%, giảm 0,39 % so với đầu năm, phấn đấu <1% khi kết thúc năm 2025. Đây là tỷ lệ nợ xấu thấp nhất của Agribank tính từ khi triển khai phương án cơ cấu lại giai đoạn 1 (năm 2013) đến nay, Agribank cũng là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu nội bảng thấp hơn đáng kể so với ngân hàng Big 4.

Kết thúc quý III, tổng tài sản Agribank đạt mốc 2,3 triệu tỷ đồng; nguồn vốn đạt 2,2 triệu tỷ đồng; tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đạt trên 1,92 triệu tỷ đồng, trong đó gần 65% dư nợ cho vay phục vụ phát triển "Tam nông"; các tỷ lệ an toàn hoạt động bảo đảm quy định.

(Tiếp tục cập nhật)