Chuyên gia: Ngân hàng nhỏ bứt phá nhờ thị trường 'ngách', chờ cú hích từ bỏ room tín dụng

Nhóm ngân hàng quy mô nhỏ đang nổi lên như điểm sáng tăng trưởng, giới phân tích kỳ vọng tiềm năng bứt phá trong tương lai đến từ chính sách bỏ room tín dụng dự kiến áp dụng trong thời gian tới và những thay đổi quan trọng trong hành lang pháp lý.

Tại chương trình "Data Talk | The Catalyst Cổ phiếu Ngân hàng nhỏ: Đầu 2025 lưu ý gì?" do TTTĐT VietnamBiz thực hiện ngày 8/8, giới phân tích đã có những góc nhìn cụ thể về nhóm ngân hàng nhỏ, hiện đang bứt phá trên thị trường. 

Theo dữ liệu từ WiGroup, thống kê báo cáo tài chính của 27 ngân hàng đã công bố báo tài chính quý II/2025, những ngân hàng đang có tăng trưởng lợi nhuận sau thuế quý II lớn nhất trong ngành hầu như có sự góp mặt của các ngân hàng nhỏ, đơn cử như NCB (tăng 549,7% so với cùng kỳ), ABBank (tăng 227,8%), PGBank (tăng 98%), Kienlongbank (tăng 68%), Bac A Bank (tăng 49%). Trong khi đó, các ngân hàng lớn và ngân hàng quốc doanh có mức tương trưởng tương đối hạn chế hơn. 

Ông Lê Hoài Ân, CFA – Chuyên gia nghiên cứu chiến lược ngành ngân hàng (Ảnh: Minh Nguyệt)

Chia sẻ tại chương trình, ông Lê Hoài Ân, CFA – Chuyên gia nghiên cứu chiến lược ngành ngân hàng cho biết số liệu tăng trưởng tín dụng các vài quý gần đây cho thấy các ngân hàng quy mô nhỏ đang tăng trưởng mạnh mẽ.

Theo ông Ân, trong ngành ngân hàng có thể chia thành ba nhóm bao gồm nhóm ngân hàng quốc doanh; nhóm ngân hàng cổ phần quy mô lớn (tổng tài sản từ khoảng 200.000 tỷ đồng trở lên) và nhóm ngân hàng quy mô nhỏ (tổng tài sản dưới 200.000 tỷ đồng). 

Dù cùng hoạt động cho vay, mỗi nhóm ngân hàng có phân khúc khách hàng riêng. Nhóm quốc doanh thường phục vụ khách hàng và doanh nghiệp lớn; nhóm chuyên cho vay doanh nghiệp như Techcombank, HDBank, MB có hệ sinh thái riêng; trong khi nhóm chuyên cho vay cá nhân gồm ACB, VIB, Sacombank tập trung vào các khoản vay nhỏ lẻ.

Nhóm ngân hàng nhỏ thường gặp bất lợi, buộc phải tìm “ngách” như theo khu vực địa lý hoặc phân khúc khách hàng đặc thù. Điều này khiến tăng trưởng khó duy trì ổn định và kết quả kinh doanh thường kém hơn, do không có quyền chọn khách hàng. Khách hàng của họ thường là những người bị từ chối ở các ngân hàng lớn, chấp nhận vay với lãi suất cao hơn nhưng rủi ro cũng lớn hơn.

Do đó, các ngân hàng nhỏ thường có biên lãi thuần (NIM) và CASA (tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn) thấp, ROE (tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu) phổ biến dưới 10%, thấp hơn mức trung bình ngành 15-18%.

 (Nguồn: Chuyên gia cung cấp)

Ông Ân cho biết tăng trưởng tín dụng toàn ngành tăng trưởng mạnh, tuy nhiên thực tế kinh tế vẫn khó khăn, tiêu dùng cá nhân thấp, hộ kinh doanh gặp vướng mắc về chuẩn hóa hàng hóa, xuất xứ và thuế. Do đó, việc các ngân hàng đẩy tín dụng rất là khó do phải cân bằng giữa tín dụng và lợi nhuận. 

"Những ngân hàng quy mô khoảng 200.000 tỷ trở xuống, việc tăng 40.000 tỷ để đạt tăng trưởng tín dụng 20% thì không khó. Nhưng đối với những "ông lớn" như Vietcombank, BIDV, VietinBank với quy mô tín dụng 2 triệu tỷ, muốn tăng 10% đã là 200.000 tỷ, việc đẩy vốn ra sẽ khó hơn rất nhiều", ông Ân nhấn mạnh. 

Ông Ân cho biết trong giai đoạn giao thời như hiện tại, điều kiện địa lý, điều kiện doanh nghiệp cũng thay đổi. Điều này làm cho mức tín nhiệm của các doanh nghiệp cũng khác và giúp cho các ngân hàng tìm ra được một nhóm doanh nghiệp mới.

"Mình chỉ cần 1% doanh nghiệp vừa và nhỏ thôi, nó cũng là 10.000 doanh nghiệp rồi, đủ tạo ra một động lực nhất định để các ngân hàng chiếm thị phần", ông Ân nhấn mạnh. 

Còn theo phân tích của PGS TS Nguyễn Hữu Huân - Giám đốc Chương trình Đào tạo Thị trường chứng khoán, Trường Đại học Kinh tế TP HCM, sự tăng trưởng ngoạn mục của các ngân hàng nhỏ trong thời gian qua đến từ 4 yếu tố.

Thứ nhất, vốn thấp giúp nhóm ngân hàng nhỏ dễ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn so với ngân hàng lớn.

Thứ hai, trong bối cảnh kinh tế khó khăn, các ngân hàng lớn vẫn duy trì tiêu chuẩn tín dụng cao, không hạ tiêu chuẩn dẫn đến khan hiếm khách hàng đạt chuẩn. Nhiều doanh nghiệp bị “rớt hạng” không vay được ở ngân hàng lớn đã chuyển sang ngân hàng nhỏ, phù hợp với khẩu vị rủi ro của nhóm này.

Thứ ba, các ngân hàng nhỏ vẫn duy trì hệ sinh thái và phân khúc ngách riêng, tập trung khai thác để gia tăng dư nợ và lợi nhuận.

Và cuối cùng, môi trường lãi suất thấp kéo dài cũng tạo điều kiện thúc đẩy giải ngân, đặc biệt ở mảng bất động sản – lĩnh vực chiếm tỷ trọng cho vay khá lớn tại nhiều ngân hàng nhỏ. Khi thị trường bất động sản dần phục hồi, nhu cầu vay tăng trở lại,giúp các ngân hàng này giải ngân tốt hơn.

"Tuy nhiên, khẩu vị rủi ro cao cũng khiến nợ xấu của ngân hàng nhỏ tăng nhanh hơn tốc độ tín dụng. Những ngân hàng nào có sự kiểm soát nợ xấu và quản trị rủi ro tín dụng tốt, thì đó sẽ là lợi thế và tiềm năng cho sự bứt phá trong tương lai", ông Huân cho hay. 

Bỏ room tín dụng sẽ tạo “cú hích” cho ngân hàng nhỏ

PGS TS Nguyễn Hữu Huân - Giám đốc Chương trình Đào tạo Thị trường chứng khoán, Trường Đại học Kinh tế TP HCM (Ảnh chụp màn hình: Minh Nguyệt)

Cũng tại chương trình, các chuyên gia nhận định chính sách bỏ room tín dụng trong thời gian tới được xem là yếu tố mở ra nhiều cơ hội bứt phá cho các ngân hàng quy mô nhỏ.

“Đặc biệt trong thời điểm hiện tại, khi bỏ room, ngân hàng nhỏ có thể dễ dàng tăng trưởng 20%, thậm chí 30% nếu họ có chiến lược và chính sách đúng mà không bị hạn chế về hạn mức tín dụng”,PGS TS Nguyễn Hữu Huân nói.

Theo ông, nhu cầu tăng trưởng kinh tế từ năm 2026 trở đi dự kiến ở mức 10%/năm. Để đạt được mục tiêu này, tăng trưởng tín dụng cần đạt từ 20 - 25%/năm – một con số đầy thách thức nhưng mở ra dư địa lớn cho các ngân hàng nhỏ. Với quy mô tín dụng chỉ khoảng 200.000 tỷ đồng, tăng trưởng 10% tương đương 20.000 tỷ đồng, trong khi các “ông lớn” với quy mô hàng triệu tỷ đồng sẽ gặp nhiều khó khăn hơn để đạt mức tăng tương tự.

Tuy nhiên, chuyên gia này cũng lưu ý rằng việc bỏ room tín dụng sẽ đi kèm các yêu cầu kiểm soát chặt chẽ hơn về chất lượng tài sản và quản trị rủi ro theo tiêu chuẩn Basel III. Nếu không kiểm soát tốt, nợ xấu tăng cao hoặc chất lượng tài sản giảm sút sẽ khiến ngân hàng khó tận dụng được cơ hội.

Bên cạnh đó, yếu tố tiếp theo là sửa đổi Luật các tổ chức tín dụng. Trong đó, có quy định cho phép các ngân hàng tự xử lý tài sản đảm bảo trong trường hợp nợ quá hạn mà không cần ra tòa. Trước đây quy trình này rất phức tạp, mất 2-3 năm.

Theo chuyên gia, luật mới khi có hiệu lực sẽ giúp các ngân hàng xử lý nợ xấu tốt hơn, giảm tỷ lệ nợ xấu và giúp vòng quay vốn nhanh hơn. Các ngân hàng nhỏ thường có tỷ lệ nợ xấu cao hơn, nên khi luật này đi vào thực tế, nó sẽ giúp họ cải thiện chất lượng tín dụng và tạo ra nhiều dư địa để phát triển.

"Với những quy định và luật sửa đổi này, thị trường ngân hàng đang có một sân chơi bình đẳng và công bằng hơn, không còn tạo ra đặc quyền đặc lợi như trước đây. Hy vọng điều này sẽ giúp ngành ngân hàng phát triển cạnh tranh hơn", ông Huân nói thêm. 

Đồng quan điểm, ông Lê Hoài Ân cho rằng điều kiện để bỏ room đang “chín muồi” hơn bao giờ hết. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nâng chuẩn từ Thông tư 41/2016 lên Thông tư 44 với lộ trình 5 năm tiệm cận Basel III, đồng thời sửa đổi các quy định về quản trị nội bộ và chấm điểm tín dụng.

"NHNN đã chuẩn bị sẵn một bộ giải pháp để khi bỏ room, những quy định này sẽ là ràng buộc về hoạt động của ngân hàng theo cơ chế thị trường và quản trị an toàn hệ thống. Kể cả việc thu giữ tài sản cũng cho các ngân hàng linh hoạt hơn. Điều kiện chín muồi cho việc bỏ room đang đến rất gần", ông Ân nhấn mạnh. 

Chiến lược phát triển trong hành lang chính sách kép

Trong bối cảnh thị trường tài chính – ngân hàng đang thay đổi mạnh mẽ, các chuyên gia cho rằng một “sân chơi” mới, công bằng hơn đang mở ra, đem lại lợi thế cạnh tranh cho cả ngân hàng lớn và nhỏ. Hai xu hướng then chốt được dự báo sẽ chi phối ngành trong thời gian tới là chuyển đổi số và phát triển xanh.

Chuyên gia Nguyễn Hữu Huân nhận định, hiện nay các ngân hàng tập trung mạnh vào chiến lược chuyển đổi số. Xu hướng những năm gần đây là cắt giảm nhân sự, tiết kiệm chi phí, dù quy mô hoạt động vẫn mở rộng, đặc biệt ở các khu vực vùng sâu, vùng xa nhằm tăng cường tài chính toàn diện.

Theo ông Huân, “game” chuyển đổi số giúp ngân hàng vận hành hiệu quả hơn, tiết kiệm chi phí, đồng thời gia tăng năng lực cạnh tranh. 

Bên cạnh số hóa, phát triển xanh được coi là xu hướng tất yếu. Việt Nam đã đặt mục tiêu Net Zero vào năm 2050, kéo theo nhu cầu vốn lớn cho các dự án chuyển đổi từ “kinh tế nâu” sang “kinh tế xanh”.

Ông Huân cho rằng đây là “miếng bánh hoàn toàn mới” mà ngân hàng nhỏ có thể tận dụng để bứt phá, đặc biệt ở những phân khúc chưa có nhiều cạnh tranh.

Tuy nhiên, lĩnh vực này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, thường là dự án lần đầu tiên, dự án mới, dự án startup. Các ngân hàng chưa có kinh nghiệm thẩm định.

"Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu trong lĩnh vực xanh cũng tương đối cao. Nếu ngân hàng nhỏ làm tốt, có chiến lược đúng đắn và quản trị rủi ro tốt với thị trường này, thì đó sẽ là cơ hội", ông phân tích thêm. 

 (Nguồn: Chuyên gia cung cấp)