[Tổng thuật] Phiên 2 VIF 2025 Mid-Year Update: Các kênh đầu tư truyền thống - Cơ hội trong thị trường nhiều ẩn số

Trong phiên thảo luận thứ hai của sự kiện VIF 2025, các diễn giả sẽ đi vào thảo luận, giải đáp các câu hỏi liên quan đến các kênh đầu tư truyền thống, cơ hội trong thị trường nhiều ẩn số.

Phiên 2 tại Vietnam Investment Forum 2025: Mid-Year Update với chủ đề Các kênh đầu tư truyền thống - Cơ hội trong thị trường nhiều ẩn số có sự tham gia của các diễn giả:

  • Bà Trịnh Quỳnh Giao, Tổng Giám đốc PVI Asset Management
  • Bà Thiều Thị Nhật Lệ, Tổng Giám đốc CTCP Quản lý quỹ UOB Asset Management (Việt Nam)
  • Bà Dương Kim Anh, Giám đốc đầu tư Công ty Quản lý Quỹ Vietcombank (VCBF)
  • Ông Lê Hoài Anh, Giám đốc điều hành Quỹ Affinity Equity Partners
  • Host: Bà Nguyễn Thị Triều, Phó Tổng Giám đốc, phụ trách Khối Ngân hàng Đầu tư và Quản trị Nguồn vốn của CTCP Chứng khoán OCBS 

 

Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô toàn cầu biến động mạnh và nhiều ẩn số như hiện nay, anh/chị với vai trò là nhà đầu tư tổ chức đang nghiêng về chiến lược thận trọng, phòng thủ hay vẫn duy trì tâm thế chủ động, tìm kiếm cơ hội từ những biến động lớn trên thị trường?

Bà Thiều Thị Nhật Lệ: Trong bối cảnh vĩ mô hiện tại, với tư cách là nhà đầu tư tổ chức, chúng tôi chọn phương án thận trọng vì vẫn còn nhiều yếu tố bất ổn. Hiện tại, chúng tôi ưu tiên các ngành và doanh nghiệp có thế mạnh nội tại ở Việt Nam, đồng thời hạn chế đầu tư vào các ngành liên quan đến xuất khẩu. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn theo dõi sát diễn biến thị trường để nắm bắt cơ hội ở những nhịp giảm sâu, như đầu tháng 4 vừa rồi.

Sau cú rơi của thị trường vào tháng 4, khi Mỹ công bố thuế đối ứng, định giá trở nên hấp dẫn hơn. Đây là cơ hội để những đơn vị đầu tư dài hạn như chúng tôi giải ngân vào các doanh nghiệp tốt, có câu chuyện tăng trưởng trong năm nay – trong bối cảnh Chính phủ đang đẩy mạnh đầu tư công và tháo gỡ thể chế để hướng đến mục tiêu tăng trưởng GDP 8% cho năm 2025. 

Bà Thiều Thị Nhật Lệ, Tổng Giám đốc CTCP Quản lý quỹ UOB Asset Management (Việt Nam). Ảnh: VIF.

Bà Trịnh Quỳnh Giao: Ở góc độ đầu tư rộng hơn, khi Mỹ ra chính sách thuế đối ứng vào đầu tháng 4, thị trường đã phản ứng khá “sốc”. Trong những thời điểm như vậy, rất khó để đưa ra một nhận định cụ thể ngay lập tức cho công chúng.

Từ góc độ đầu tư thực tế, chúng ta cần phân tích chính sách thuế sẽ tác động như thế nào đến các ngành nghề cụ thể. Quan trọng hơn là đánh giá khả năng doanh nghiệp ứng phó ra sao trước các biến động – đây là yếu tố then chốt để phát triển bền vững. Sự bất định giờ đây đang trở thành “bình thường mới”.

Tôi nhớ có một doanh nghiệp thủy sản từng chia sẻ rằng, nếu thuế suất bị áp 46%, họ có thể bị ảnh hưởng lợi nhuận từ 15–30%. Dù chưa chắc xảy ra, nhưng điều đó cho thấy họ đã chủ động tính toán và chuẩn bị.

Trở lại với hành động đầu tư, như tôi đã nói, cần rà soát lại danh mục hiện tại để xem mức độ ảnh hưởng. Còn về mặt dài hạn, các khoản đầu tư vào doanh nghiệp tốt của các quỹ vẫn sẽ tiếp tục, không vì biến động ngắn hạn mà dừng lại.

Nhà đầu tư vẫn chọn cổ phiếu là kênh ưu tiên, chị dự báo thị trường chứng khoán nửa cuối năm ra sao, chiến lược áp dụng là gì?

Bà Dương Kim Anh: VCBF đi theo hướng đầu tư cơ bản, chúng tôi không cố dự báo thị trường. Chúng tôi chắc chắn một điều là ẩn số có quá nhiều. Có thể 1 tháng gần đây chúng ta nhận được những tin tích cực về tiến trình thoả thuận thương mại đạt được kết quả hợp lý. Nhưng điều đó cũng không chắc chắn.

Cứ cho Việt Nam có những bước tiến tích cực thì mình còn ảnh hưởng bởi các nước khác. Tất nhiên có thể không có những biến động mạnh như ngày 2/4 khi có thông báo về thuế quan. Nhưng chắc chắn có nhiều tuyên bố không theo suy nghĩ của mọi người và thị trường sẽ phản ứng theo đó.

Đây không phải lần duy nhất biến động mạnh như vậy. Điển hình như giai đoạn COVID-19 thị trường trải qua đợt sụt giảm mạnh nhưng sau đó phục hồi lại. Cuối cùng quan trọng nhất là nền tảng của doanh nghiệp, đơn vị nào có thể chống chịu được.

Cách làm của VCBF là lựa chọn doanh nghiệp có nền tảng tốt, có thể cạnh tranh trên thị trường, ban lãnh đạo nhanh nhạy. Khi có thay đổi trên thị trường đội ngũ VCBF không hoản loạn mà xem lại danh mục của mình.

Tiêu chí của chúng tôi là lựa chọn doanh nghiệp nền tảng tốt nên tin tưởng họ có thể vượt qua biến động như này. Với những doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp cần xem xét kỹ hơn việc họ đa dạng thị trường và sản phẩm thế nào để từ đó phân bổ lại tỷ trọng danh mục. 

Nói đến vấn đề thuế quan, đây cũng là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư tham gia khảo sát với kết quả 71,4%, với góc độ của nhà đầu tư lớn, ông có thể chia sẻ cách đánh giá tác động của cuộc chiến này đến hoạt động đầu tư của quỹ như thế nào?

Ông Lê Hoài Anh: Bản thân tôi đã từng đầu tư và cho vay các doanh nghiệp Việt Nam khoảng 20 tỷ USD trong vòng 20 năm qua. Tất cả khoản đầu tư đó đều thành công. Năm 2012, vay liên ngân hàng lãi suất 20%, lúc đó các doanh nghiệp bất động sản khó khăn trong huy động vốn.

Tại thời điểm đó Vingroup định đầu tư Vincom Village. Thời điểm đó không ai cho vay cả, thậm chí có những ngân hàng trong nước và nước ngoài rút khoản vay cho Vincom Village. Thời điểm đó chúng tôi đưa ra phương án đầu tư thận trọng. Lúc đó, giá 1 mét vuông Vincom Village khoảng 20 triệu đồng đã là thành công. Hiện tại mức giá đã lên tới 300 - 350 triệu/mét vuông. Thời điểm đó rất khó khăn trong huy động vốn chúng tôi cũng đưa ra phương án vay vốn rất cao, khoảng 20%/năm. Deal này cũng rất thành công.

Cũng tại thời điểm đó, đầu năm 2013 khi mà rất khó khăn khi có nhiều cuộc khủng hoảng ngân hàng xảy ra, khả năng cho vay ở thị trường Việt Nam rất thấp. Lúc đó chúng tôi tham gia đầu tư Vincom Retail. Tại thời điểm đó định giá của Vincom retail là 1 tỷ USD và hầu như không ai tham gia đầu tư cả. Năm 2016 khi IPO thì định của VRE là 4,5 tỷ USD. Tức trong 4 năm tăng 400%. Đấy là những thành công không chỉ ở Việt Nam mà châu Á nói chung.

Chúng tôi chiêm nghiệm lại những khoản đầu tư trong khoảng thời gian khó khăn nhất của Việt Nam thì lại là khoản đầu tư thành công nhất. Bây giờ các nhà đấu tư cũng thận trọng. Nhưng ai đó có khoảng 200 triệu USD, chúng tôi cũng sẵn sàng đầu tư. Hiện tại chúng tôi rất mong muốn có một khoản đầu tư.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp bản thân họ cũng không đưa ra những phương án đầu tư. Nếu các doanh nghiệp chủ động đưa ra các phương án đầu tư thì thời điểm này rất thuận lợi. Chưa bao giờ Việt Nam lại có điều kiện nội tại tốt như bây giờ, đặc biệt là chính sách. Thường những thời điểm như bây giờ các doanh nghệp có lợi rất lớn là tập trung nội địa. Đây là cơ hội rất tốt. Các nhà đầu tư rất quan tâm đến Việt Nam.

Ông Lê Hoài Anh, Giám đốc điều hành Quỹ Affinity Equity Partners. Ảnh: VIF.

Dưới góc độ quản lý danh mục đầu tư, chị cho rằng ưu tiên phân bổ vào nhóm ngành nào (overweight), và hạn chế với nhóm ngành nào (underweight) phù hợp với bối cảnh hiện nay? 

Bà Dương Kim Anh: Bởi vì chúng tôi đi theo chiến lược đầu tư lựa chọn từng doanh nghiệp một, chúng tôi cũng không có một phân bổ tổng quan từ trên xuống để xem ngành này cần phân bổ bao nhiêu phần trăm, ngành khác bao nhiêu phần trăm, mà sẽ lựa chọn từ dưới lên xem những doanh nghiệp nào phù hợp nhất với tiêu chí đầu tư của mình hay phù hợp nhất với chiến lược đầu tư của từng quỹ mà chúng tôi đang đầu tư.

Đương nhiên có những doanh nghiệp bị ảnh hưởng nhiều bởi thuế quan. Ví dụ, trên sàn, có những doanh nghiệp dệt may, thủy sản, hay đồ gỗ. Ngành điện tử có đóng góp vào tăng trưởng xuất khẩu rất lớn và xuất khẩu bị ảnh hưởng rất nhiều, nhưng thực ra trên sàn chứng khoán lại không có nhiều, bởi chủ yếu là doanh nghiệp FDI. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam bị ảnh hưởng chủ yếu hoạt động trong các ngành dệt may, da giày, rồi thủy sản. 

Và một trong những ngành nữa cũng bị ảnh hưởng, mặc dù họ không xuất khẩu nhưng lại bị ảnh hưởng tương đối trực tiếp, đó là các doanh nghiệp khu công nghiệp. Khi phần lớn diện tích họ cho thuê là cho các doanh nghiệp FDI, và như từ đầu buổi đến giờ, các diễn giả đều đề cập việc các doanh nghiệp nước ngoài khi đến đầu tư ở Việt Nam, bây giờ với chính sách thuế quan chưa rõ ràng như thế, họ đều tạm dừng lại, có thể là "wait and see" để xem chính sách như thế nào rồi mới quyết định đầu tư tiếp. 

Vậy thì ngay lập tức các doanh nghiệp bất động sản khu công nghiệp sẽ bị ảnh hưởng, bởi vì đáng lẽ có thể đã ký hợp đồng, nhưng bây giờ nhà đầu tư lại tạm hoãn. Do đó, dòng tiền cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Tuy nhiên, cách chúng tôi làm là cũng phải xem xét đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu hoặc doanh nghiệp khu công nghiệp, chúng tôi cũng phải xem lại từng doanh nghiệp một. 

Ví dụ, các doanh nghiệp xuất khẩu, mỗi doanh nghiệp đều bị ảnh hưởng, nhưng mức độ ảnh hưởng sẽ khác nhau. Cùng là dệt may hay cùng là thủy sản, có doanh nghiệp sẽ tập trung rất nhiều vào thị trường Mỹ, và trong ngắn hạn họ sẽ rất khó để có thể đa dạng hóa thị trường, tiếp tục đi tìm kiếm những bạn hàng khác. 

Nhưng cũng có những doanh nghiệp ngay từ ban đầu, tỷ trọng giữa các thị trường của họ cũng đã tương đối cân bằng, họ không quá phụ thuộc vào thị trường Mỹ.

Hay cũng là doanh nghiệp dệt may, nhưng có những doanh nghiệp họ có thể gia công những đơn hàng khó, để bạn hàng tìm một đơn vị khác thay thế ngay sẽ rất khó khăn, nên nhiều khả năng họ vẫn duy trì được đơn hàng của mình.

Tương tự, đối với các doanh nghiệp thủy sản cũng vậy thôi, thị trường của họ ra sao, giá, chi phí sản xuất của họ so với các mặt hàng thủy sản tương tự có thể nhập từ nước khác thì liệu họ có cạnh tranh được không? Ví dụ, kể cả với thuế 46%, ở mức cao nhất đi, có khi họ vẫn cạnh tranh được, thì cũng chưa chắc họ sẽ mất hoàn toàn đơn hàng.

Do đó, đối với từng doanh nghiệp, cần xem xét mức độ ảnh hưởng như thế nào để quyết định tỷ trọng, chứ không phải cứ thuộc ngành đó là chúng ta giảm hoàn toàn tỷ trọng.

Đối với doanh nghiệp khu công nghiệp, quan điểm của tôi có lẽ sẽ theo hướng như sau: Trước mắt, khi chúng tôi gặp các doanh nghiệp khu công nghiệp, họ đều chia sẻ rằng hiện giờ các hợp đồng có thể hơi chậm lại, nhà đầu tư cũng dừng lại để "wait and see". 

Nhưng với xu hướng hiện nay, Việt Nam sẽ tập trung thu hút FDI có chọn lọc hơn. Tức là trước đây có thể ai vào cũng mở cửa, nhưng bây giờ sẽ phải chọn lọc những doanh nghiệp có chuyển giao công nghệ, hoặc tham gia ở công đoạn giá trị gia tăng cao hơn, hoặc có kế hoạch xây dựng cả một chuỗi cung ứng ở Việt Nam – tức là họ không chỉ vào Việt Nam mà còn kéo theo các doanh nghiệp khác.

Trong những trường hợp đó, các doanh nghiệp khu công nghiệp có quỹ đất tốt, quỹ đất sạch, đặc biệt là những khu công nghiệp chú trọng yếu tố môi trường hay ESG, theo chúng tôi, sẽ là đối tượng được hưởng lợi. Bởi vì chỉ cần chính sách thuế quan rõ ràng hơn một chút – và có lẽ chỉ trong vài tháng tới sẽ rõ ràng hơn – chắc chắn đó sẽ là những doanh nghiệp đầu tiên được hưởng lợi, bởi họ sẽ thu hút được các đối tượng hoặc doanh nghiệp FDI tốt nhất, có kế hoạch dài hạn tại Việt Nam, không chỉ thu hút trong ngắn hạn mà còn giữ chân được khách hàng trong dài hạn.

Đối với những doanh nghiệp đó, có thể nói chúng tôi không những không giảm tỷ trọng mà còn tăng tỷ trọng.

Bà Dương Kim Anh, Giám đốc đầu tư Công ty Quản lý Quỹ Vietcombank (VCBF). Ảnh: VIF.

Chị có đồng quan điểm về triển vọng ngành như vậy không, và trong giai đoạn 6 tháng tới, liệu theo chị có sự xoay trục đáng chú ý nào về nhóm ngành hoặc chiến lược phân bổ danh mục không?

Bà Thiều Thị Nhật Lệ: Đến từ phía UOB Việt Nam, chiến lược đầu tư của chúng tôi trong bối cảnh hiện tại là tập trung hơn vào những ngành và công ty mà hoạt động chủ yếu ở thị trường trong nước hơn là xuất khẩu. Thứ hai là những công ty được hưởng lợi từ chủ trương và những ưu tiên mang tính chiến lược của nhà nước, đặc biệt trong đầu tư công.

Một số ngành hiện nay chúng tôi quan tâm nhiều bao gồm, thứ nhất là ngành ngân hàng, vì mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm nay tương đối cao 16%, và cũng sẽ hưởng lợi từ việc đẩy mạnh giải ngân đầu tư công.

Ngành thứ hai chúng tôi quan tâm là xây dựng và vật liệu xây dựng. Đương nhiên, chúng ta đều thấy khi các dự án trọng điểm, đặc biệt là đầu tư cơ sở hạ tầng trong năm nay, được chính phủ đẩy mạnh như một trong những biện pháp chính hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, thì ngành này cũng đáng để quan tâm.

Tiếp theo là bán hàng và tiêu dùng. Mặc dù vĩ mô bên ngoài, tức các yếu tố bên ngoài trên thế giới còn nhiều bất ổn, nhưng sức mua trong nước cho đến thời điểm hiện tại vẫn cho thấy những dấu hiệu tương đối tích cực. Cho nên, chúng tôi vẫn chú trọng những ngành này.

Một ngành nữa chúng tôi nghĩ trong thời gian tới cũng có nhiều tiềm năng tăng trưởng là ngành bất động sản. Như chúng ta đã nghe các diễn giả trao đổi trong phiên thảo luận thứ nhất, hiện nay chính phủ đang tích cực hỗ trợ tháo gỡ các vướng mắc pháp lý cho trên 2.000 dự án. Nếu điều này được thực hiện tốt, rõ ràng đây là một cú hích lớn cho ngành bất động sản.

Cuối cùng, chúng tôi cũng quan tâm đến các công ty trong lĩnh vực công nghệ và logistics. Thật ra, quan ngại về chính sách thuế của Tổng thống Trump đương nhiên là một trong những quan ngại chính của tất cả các nhà đầu tư, không chỉ ở Việt Nam. 

Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn kỹ hơn vào bức tranh giữa thương mại Việt Nam và Mỹ, và các đàm phán giữa hai bên, mọi người đều nói về mức thuế 46%. Với những thông tin tôi đọc được trên báo chí, hiện nay mọi người đang nói về mức tầm khoảng 10% hoặc 20-23% gì đó. Quan điểm của chúng tôi là không nghĩ mức thuế đó sẽ được áp cho tất cả các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ. 

Điều quan trọng hơn, chúng tôi muốn chờ đợi xem kết quả này không chỉ giữa Mỹ và Việt Nam, mà còn giữa Mỹ và các nước là đối thủ trực tiếp của Việt Nam trong việc xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ. 

Những nước cũng xuất khẩu các mặt hàng tương tự như Việt Nam sang Mỹ, họ sẽ được hưởng mức thuế đối ứng của Mỹ như thế nào. Chứ không phải chỉ nhìn đơn thuần là Mỹ áp mức thuế đối với Việt Nam như thế này. Nếu chúng ta nghĩ nó tích cực nhưng vẫn cao hơn các đối thủ trực tiếp thì nó không còn tích cực nữa.

Tương tự như vậy, đối với FDI, chúng ta đều biết vai trò quan trọng của khối FDI trong kinh tế Việt Nam suốt 20-30 năm qua. Hiện nay, khối FDI đang đóng góp đâu đó khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Chúng ta cũng cần họ quan sát xem kết quả cuối cùng của đàm phán giữa Mỹ và Việt Nam như thế nào, và những mặt hàng nào cụ thể chịu mức thuế ra sao. Tôi nghĩ những doanh nghiệp FDI trong những ngành đó sẽ có điều chỉnh chiến lược.

Cho nên, thật ra hiện tại để đưa ra một câu trả lời chung thì chúng tôi cũng thật sự vẫn phải đang chờ có một thông tin đầy đủ, rõ ràng hơn để đưa ra những chiến lược đầu tư sát sườn. Có thể sau vài tháng tới, khi chúng ta có kết quả đàm phán cuối cùng, lúc đó chúng tôi sẽ quan tâm nhiều hơn đến các công ty xuất khẩu mà chúng tôi nghĩ họ vẫn còn giữ được ưu thế cạnh tranh so với các đối thủ khác cũng xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ chẳng hạn.

Đối với chúng tôi, thật sự đối với chiến lược đầu tư hay triết lý đầu tư, chúng tôi nhìn về bức tranh vĩ mô, về định hướng chiến lược của nhà nước và các yếu tố bên ngoài để xem những ngành nào sẽ được hưởng lợi trong thời gian tới – không chỉ hiện tại mà thường đầu tư là nhìn về tương lai. Trong những ngành đó, chúng tôi chọn những công ty, những doanh nghiệp hàng đầu.

Tuy nhiên, cũng có những ngành không nằm trong cái gọi là "preferred list" của chúng tôi, nhưng có những công ty nằm ngoài những ngành đó lại "stand out", nền tảng của họ rất tốt và vị thế của họ trên thị trường rất tốt, thì chúng tôi cũng đưa vào danh sách để đầu tư.

Với nhà đầu tư nước ngoài, anh nhận xét như thế nào về việc có mức thuế 23%? Tất nhiên sẽ có sự thay đổi giữa các nhóm mặt hàng khác nhau, nhưng liệu 23% có phải là mức khả thi không? 

Ông Lê Hoài Anh: Tôi nghĩ về mức thuế, tôi cũng rất đồng tình với ý kiến của chị Lệ, sẽ không có một mức thuế chung là 20% hay 25% cho tất cả các mặt hàng. Như bản thân Tổng thống Trump cũng đã nói rằng sẽ không đánh thuế để đưa những ngành sản xuất, ví dụ như dệt may, giày dép, gia công, trở về Mỹ. Do đó, tôi nghĩ rằng mức thuế đối với những ngành đó – mà ở Việt Nam chiếm tỷ trọng rất lớn trong xuất khẩu, khoảng 40-50% – sẽ phụ thuộc vào mức độ phải chăng. 

Chúng ta không thể nói trước được là bao nhiêu, nhưng điều quan trọng là nếu không bị thấp hơn, không bị cao hơn các sản phẩm sản xuất từ các nước khác, thì tính cạnh tranh của hàng Việt Nam sẽ càng tốt hơn. Và đối với những sản phẩm đó, tôi nghĩ thậm chí nó sẽ là tích cực cho Việt Nam.

Bởi vì, như ông Trump nói, không đưa các sản phẩm đó về sản xuất ở Mỹ nữa mà có thể ở các nước khác. Thì những cơ sở sản xuất ở những nước như Việt Nam, người ta cũng không có lý do gì để đưa những sản xuất đó sang nước khác cả, vì mất rất nhiều thời gian để làm và Việt Nam có những lợi thế cạnh tranh như vậy. 

Thậm chí, tôi nghĩ có thể sẽ còn tốt hơn, vì một số ngành sản xuất như vậy có thể đã dịch chuyển từ Trung Quốc và tiếp tục dịch chuyển sang Việt Nam. Đó là đối với những ngành sản xuất như dệt may, da giày, gia công các thứ, tôi nghĩ sẽ rất tốt.

Tuy nhiên, cũng có một số sản phẩm mà tôi nghĩ sẽ có mức thuế cao hơn so với mức độ mà mọi người nói là khoảng 15-20% gì đó. Ví dụ như đồ điện tử, điện thoại di động, ông Trump đã nói rất rõ, ngay cả Apple không đưa về Mỹ cũng bị đánh thuế 25%, và Samsung hay LG các thứ cũng sẽ bị mức thuế cao như vậy. 

Thì đó là vấn đề sẽ áp một mức thuế cao với tất cả các công ty làm về đồ điện tử và điện thoại di động ở ngoài nước Mỹ. Tôi cũng nghĩ rằng điều đó sẽ dẫn đến một việc là các công ty như Samsung chẳng hạn, họ đã sản xuất tại Việt Nam rồi, và nếu mức thuế ở các nước khác cũng không thấp hơn ở Việt Nam thì chẳng có lý do gì lại đưa ra khỏi Việt Nam cả. 

Tôi nghĩ rằng như vậy thì trong trường hợp mức thuế ở Việt Nam không cao hơn so với những mức thuế khác, họ cũng không dịch chuyển đi.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp nước ngoài như Samsung hay LG, họ có những lý do khác để họ chuyển dịch ra khỏi Việt Nam, chứ không phải là vấn đề thuế quan (tariff). Ví dụ như vấn đề miễn thuế của chính phủ Việt Nam đối với những lĩnh vực đó trong 10 năm qua, có thể sau này sẽ không còn tiếp tục nữa, chúng ta cũng biết là chính phủ có cân nhắc việc gia hạn hay không. Thì họ chuyển sang các nước khác không phải là do thuế tăng lên, mà là do các nước khác đưa ra một điều kiện thuế thấp hơn. 

Đó là lý do mà tôi nghĩ rằng, thứ nhất, sẽ không có một mức thuế chung áp dụng đối với Việt Nam, mà sẽ có những mức thuế với các ngành nghề khác nhau. Đối với những hàng gia công các thứ, tôi nghĩ sẽ còn, thậm chí sẽ còn tốt hơn. Còn những hàng điện tử các thứ, điều đó phụ thuộc rất nhiều vào những đàm phán giữa ông Trump và các nước khác như Hàn Quốc, Nhật Bản, hay bản thân với cả những doanh nghiệp của Mỹ về những hàng đó.

Còn những hàng nông nghiệp và hàng thủy sản, tôi nghĩ rằng điều đó lại phải xem xét theo từng mặt hàng. Và tôi nghĩ rằng nếu Việt Nam, từ trước đến nay, vấn đề gia nhập, tham gia vào thị trường Mỹ, chúng ta nói nhiều đến vấn đề đó vì thị trường Mỹ tương đối dễ cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia.

Nhưng đây là một cơ hội rất tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam. Bản thân tôi cũng có trao đổi với một số doanh nghiệp Việt Nam làm trong lĩnh vực, ví dụ như nông nghiệp, hải sản, thực phẩm, họ nói rằng bây giờ họ đi tìm các thị trường khác thì những thị trường khác thậm chí còn hay hơn thị trường của Mỹ nếu như có thể đa dạng hóa được. Tất nhiên, cần có thời gian chuyển dịch, nhưng đó lại là cơ hội cho các doanh nghiệp như vậy.

Nên tôi tương đối thận trọng và lạc quan trong vấn đề thuế của Mỹ áp đặt lên Việt Nam. Một lý do tôi nghĩ như vậy là vì trên cơ sở một số nhận định về chính quyền Trump, thứ nhất, ông Trump, bản thân cá nhân ông có một thiện chí đối với Việt Nam. 

Ngay cả trong nhiệm kỳ đầu tiên, ông đã sang Việt Nam đến ba lần. Một lần nữa, khi tuyên bố thuế với Việt Nam ở mức 46%, câu đầu tiên ông nói là ông rất yêu Việt Nam nhưng vẫn phải áp đặt mức thuế 46%. Nhưng việc ông nói đó, thực ra không phải chỉ đối với Việt Nam, mà kể cả những nước ông rất yêu, hoặc những nước ông cũng bình thường, ông đều áp dụng những mức thuế mà tất cả mọi người đều rất bất ngờ. Đó là cá nhân ông Trump.

Thứ hai nữa là quan hệ đối tác toàn diện của Việt Nam với Mỹ có những điểm mà các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp Mỹ cũng sẽ được hưởng lợi từ quan hệ chiến lược đó. 

Trong đó, mọi người cũng đều biết rằng các doanh nghiệp Mỹ, ví dụ như Trump Organization, vừa rồi có dự án ở Hưng Yên 1,5 tỷ USD, sắp tới có dự án ở Thủ Thiêm, một loạt các dự án của các tập đoàn về năng lượng tái tạo các thứ, sẽ có cơ hội mở ra và có thể có những ưu đãi hơn trong vấn đề tại Việt Nam. Đó là lợi ích mà bản thân các công ty Mỹ đầu tư ở Việt Nam.

Thứ ba nữa là rất nhiều sản phẩm Việt Nam, như tôi đã nói, ông Trump đã xác nhận lại rằng những sản phẩm đó Mỹ không đưa về Việt Nam.

Bản thân những nước đưa sang Việt Nam để sản xuất, dịch chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông Trump, thực ra họ thực hiện đúng theo ý đồ chiến lược của ông Trump rồi, đưa những sản xuất ra khỏi Trung Quốc sang các nước khác mà họ cho là đồng minh. 

Vì bản thân các doanh nghiệp Mỹ bây giờ họ cũng đang nói rằng tại sao lúc đó tôi thực hiện theo định hướng chiến lược của ông Trump trong vấn đề đưa các sản xuất đó sang một nước thứ ba, mà Việt Nam gần đây là một nước rất lý tưởng để làm việc đó, thì nay lại phải chịu những chính sách thuế mới. 

Việc đó, chắc mọi người cũng biết rằng các phòng thương mại công nghiệp Mỹ, rồi Hội đồng thương mại US-ASEAN, cũng đang đưa ra vấn đề là đối với những nước như Việt Nam thì vẫn phải có sự tôn trọng trong vấn đề những cam kết của Mỹ đối với Việt Nam.

Một điểm cuối cùng nữa, tôi nghĩ rằng về mặt địa chính trị, nước Mỹ cũng không muốn nhìn thấy Việt Nam yếu đi trong tương lai, vì quan hệ đối tác chiến lược của Việt Nam với Mỹ cũng có lợi cho không chỉ Việt Nam, cho Mỹ mà cả các nước trong khu vực. 

Sự ổn định chung, tôi nghĩ đó cũng là một chiến lược mà Mỹ cho rằng tốt cho tất cả các nước. Và việc ổn định kinh tế Việt Nam sẽ dẫn tới sự ổn định kinh tế ở khu vực, đó là một sự "win-win" cho tất cả. Nên mọi người đều ủng hộ vấn đề đó.

Đó là lý do tôi nói rằng thuế thì chắc là sẽ không thấp như trước đây, nhưng sẽ không đến nỗi mọi người phải bi quan. Thứ hai nữa là thậm chí tôi nhìn thấy nhiều yếu tố tích cực hơn nếu như Việt Nam đạt được thỏa thuận thuế với Mỹ trong thời gian sắp tới. 

Và mọi người cũng biết rằng trong những đối tác mà đàm phán với Mỹ, họ chọn Hàn Quốc và Nhật Bản đầu tiên để đàm phán, nhưng đến bây giờ họ cũng không đạt được thỏa thuận. Anh thì đạt được một cái khung, nhưng thực ra Anh lại là nước "xuất siêu" sang Mỹ, nên Mỹ do đó cần phải tìm một đối tác đàm phán để chứng minh rằng học thuyết thuế quan của ông Trump... 

Thì bây giờ để đàm phán với ông Trump đạt được một kết quả cụ thể nào đó, hiện chỉ có Việt Nam và Ấn Độ là hai nước có thể gần nhất, và thậm chí Ấn Độ có lẽ sẽ không nhanh bằng Việt Nam. 

Thì có thể họ sẽ chọn Việt Nam là một "case study", một trường hợp thành công, một trường hợp đàm phán thành công để chứng minh cho học thuyết đàm phán và học thuyết thương mại của ông Trump là thành công. Thì điều đó thậm chí lại sẽ rất tốt để tạo một hình ảnh cho mọi người thấy rằng nếu như một đối tác thiện chí như vậy, phối hợp như vậy, thì sẽ có những mức thuế quan phù hợp. Nên tôi, mọi người, tất cả đều rất đợi chờ việc đó, nhưng tôi nghĩ việc đó sẽ đến ở mức độ mà tôi nghĩ sẽ không đến mức phải bi quan, mọi người vẫn có thể lạc quan được.

Nhà đầu tư nước ngoài đã liên tục bán ròng suốt 4 tháng đầu năm. Tuy nhiên, đến khoảng đầu tháng 5, xu hướng này có dấu hiệu đảo ngược sang mua ròng. Trong bối cảnh hiện tại, liệu Việt Nam có là điểm sáng cho nhà đầu tư nước ngoài đảo ngược xu hướng bán ròng trước đó?

Ông Lê Hoài Anh: Có một số điểm mà nhà đầu tư nước ngoài sẽ đặc biệt quan tâm, ví dụ như câu chuyện tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, rất khó để dự đoán dòng tiền ngoại sẽ diễn biến như thế nào trong 6 đến 12 tháng tới tại thị trường Việt Nam.

Xét trên toàn thị trường, tôi cho rằng sẽ không có nhiều thay đổi lớn. Chi phí vốn trên thế giới vẫn còn cao, lãi suất cơ bản đang ở mức 4,5–5%/năm. Vì vậy, để dòng vốn ngoại đầu tư vào Việt Nam, thị trường phải đảm bảo mức lợi suất 15 – 20% mới có thể bù đắp được rủi ro tỷ giá.

Trong khi đó, thời gian vừa qua, việc đầu tư vào chứng khoán Mỹ – chẳng hạn như chỉ số S&P 500 – đã mang lại lợi suất tốt cho nhà đầu tư. Ngược lại, VN-Index vẫn chỉ quanh quẩn ở vùng 1.200 điểm. Mặc dù bối cảnh kinh tế Việt Nam có nhiều điểm sáng, nhưng nhà đầu tư nước ngoài cũng đang có nhiều cơ hội hấp dẫn ở các thị trường khác.

Bà Thiều Thị Nhật Lệ: Thực tế, dòng vốn nước ngoài, đặc biệt là từ các tổ chức lớn – thường được phân bổ theo từng khu vực cụ thể. Năm ngoái, hiệu suất đầu tư tại Mỹ rất tốt nên dòng vốn có xu hướng tập trung nhiều về đó. Tại Việt Nam, như ông Hoài Anh có nói, vấn đề tỷ giá thực sự là một yếu tố đáng cân nhắc.

Về mặt định giá, sau cú sập thị trường vào tháng 4, mặt bằng định giá ở Việt Nam đã trở nên hấp dẫn hơn.

Tuy nhiên, để đưa ra một dự báo chắc chắn về xu hướng dòng vốn ngoại thì vẫn còn quá sớm. Chúng ta cần thêm vài tháng nữa để chờ kết quả các cuộc đàm phán giữa Mỹ và Việt Nam, cũng như với các quốc gia khác. Việt Nam có nhiều lợi thế như dân số đông khoảng 100 triệu người, dân số trẻ và nhu cầu tiêu dùng nội địa rất mạnh. Ngoài ra, Việt Nam còn có vai trò chiến lược trong khu vực, nên các cuộc đàm phán với Mỹ không chỉ xoay quanh thương mại mà còn bao hàm cả yếu tố chính trị. 

Vấn đề của thị trường trái phiếu hiện nằm ở đâu? Ngoài vấn đề khủng hoảng lòng tin của thị trường còn vấn đề nào khác? 

Bà Trịnh Quỳnh Giao: Nói về số liệu, so với thời điểm trước khủng hoảng năm 2022, thời điểm năm 2024 tỷ lệ phát hành sơ cấp mới chỉ bằng hơn một nửa so với thời điểm đỉnh cao nhất. 5 tháng đầu năm nay vẫn trầm lắng mặc dù phục hồi so với 2022.

Sau cú ngã vừa rồi, nhà đầu tư cũng đã tỉnh táo hơn nhiều. Bản thân các chính sách của Bộ Tài chính cũng đã lọc tốt kênh nào phát hành ra công chúng, kênh nào phát hành riêng lẻ.

Nếu nhìn về toàn bộ dòng vốn của nền kinh tế, hiện nay Việt Nam đang dựa nhiều vào dòng vốn của ngân hàng.

Kênh thứ hai, Bộ Tài chính kỳ vọng nhiều vào thị trường vốn bao gồm ngân hàng, doanh nghiệp bảo hiểm…. Tuy nhiên, có vấn đề về chính sách giữa Bộ Tài chính và NHNN chưa xuyên suốt.

Đối với bảo hiểm, nhiều quỹ bảo hiểm có nguồn tiền dài hạn và chi phí vốn cung cấp cho các doanh nghiệp thông qua thị trường vốn, trái phiếu sẽ giúp cho doanh nghiệp rất nhiều. Tuy nhiên, hiện đang vướng một vài quy định.

Theo quy định, doanh nghiệp bảo hiểm không được đầu tư vào trái phiếu tái cấu trúc nợ. Theo quy định, doanh nghiệp bảo hiểm phải đầu tư vào tài sản an toàn. Điều này tạo ra bất cập. Mọi người đang nhìn nhận tái cấu trúc nợ là xấu nhưng thực ra không hoàn toàn vậy.

Ở thị trường Việt Nam có bất cập là trái phiếu không có thanh khoản nên nhà đầu tư còn sợ. Hầu hết kỳ hạn trái phiếu chỉ là 3 năm, 5 năm cùng lắm là 7 năm. Trong một dự án bất động sản kéo dài 7 -10 năm, dự án hạ tầng cũng kéo dài cả chục năm. Trong khi đó, lòng tin của nhà đầu tư cũng chưa đủ để đi dài như thế.

Doanh nghiệp muốn thu hút vốn chỉ dám để kỳ hạn 5 năm. Điều này vênh giữa bên cầu và bên cung. Trong khi luật quy định không được đầu tư vào tái cấu trúc vốn dẫn đến việc làm được đúng vòng đầu. Doanh nghiệp trả được 5 năm cho mình nhưng lại không được đầu tư tiếp mặc dù dự án đó vẫn tốt, doanh nghiệp đó vẫn tốt. Điều này chặn luôn nguồn vốn từ bảo hiểm.

Vấn đề thứ hai là doanh nghiệp bất động sản cũng sợ phát hành trái phiếu. Tôi làm việc với những doanh nghiêp bất động sản tốt nhất thị trường thấy một điều là quy định trái phiếu siết chặt quá. Ngày xưa còn dùng cho vốn lưu động thì bây giờ chỉ được tài trợ đúng dự án.

Thế nhưng thông thường các công ty bất động sản đặt mỗi dự án là một công ty con ở dưới. Quy định tài trợ dự án có nghĩa là dự án nằm luôn trong công ty mẹ. Cách mà cấu trúc công ty bất động sản nằm luôn công ty con để muốn góp vốn vào công ty con cũng là tài trợ dự án. Định nghĩa đó khá khấp khiểng.

Dưới góc nhìn của cơ quan quản lý khi xét duyệt hồ sơ thì cho rằng đây không phải là tài trợ dự án mà là góp vốn, chưa chắc được dùng vào mục đích sử dụng vốn đó.

Từ 1/7/2024, NHNN quy định ngân hàng thương mại không được tham gia quản lý tài sản đảm bảo cho gói phát hành trái phiếu. Từ đó đến nay, chúng tôi rất khó khăn trong việc đầu tư.

Bởi, lúc đó chỉ còn trái phiếu hoặc thậm chí không có tài sản đảm bảo nào hoặc trái phiếu đảm bảo bằng cổ phiếu. Điều này rất rủi ro. Nếu không cho ngân hàng làm thì ai làm? Bộ Tài chính cần phải có quy định cho phép ai tham gia quản lý tài sản đảm bảo cho gói phát hành trái phiếu.

Do đó, sự sụt giảm của thị trường trái phiếu không hẳn vì vấn đề niềm tin mà là vấn đề cấu trúc thị trường. Ngày xưa, cấu trúc phát hành trái phiếu của doanh nghiệp bất động sản thường là 1/3 ngân hàng, 1/3 bất động còn lại là các thành phần khác. Nhưng hiện tại là 77% ngân hàng. Trong khi các doanh nghiệp bảo hiểm chúng tôi lại bơm vốn bằng trái phiếu cho ngân hàng.

Vietnam Investment Forum 2025: Mid-Year Update do VietnamBiz và Việt Nam Mới phối hợp tổ chức, diễn ra vào chiều ngày 3/6/2025 tại Hà Nội, với mục tiêu kết nối bài học từ nửa đầu năm với xu hướng đầu tư cho chặng đường tiếp theo. 

Diễn đàn được tường thuật trực tiếp trên website vietnambiz.vn, livestream trên các nền tảng Youtube VIF, Fanpage Tin Kinh tế hàng ngày.

CÙNG CHUYÊN MỤC